Thứ bảy 17/05/2025

NỘI DUNG CHÍNH

50 năm Văn học, nghệ thuật Việt Nam sau ngày đất nước thống nhất (30/04/1975 - 30/04/2025): Văn nghệ Long An đi cùng sự nghiệp cách mạng

      Trong hành trang văn hóa của cha ông ta đến Long An trên con đường đi khai mở đất phương Nam còn có cả một vốn liếng văn học - nghệ thuật được hun đúc qua bao thế hệ ở vùng đất cũ, trong điều kiện mới đã hình thành nên những giá trị mới, đa dạng về loại hình, phong phú về số lượng và đặc sắc về nội dung, từ ca dao, tục ngữ, vè, truyện kể và các hình thức diễn xướng dân gian như hò, lý, hát bội, ca nhạc tài tử...


       Nghệ thuật dân gian trong thời kỳ đầu có bóng rỗi; rồi hát bội có mặt cũng rất sớm từ cuối thế kỷ XIX được biết qua các tư liệu về gánh hát bội đầu tiên của ông Huỳnh Duy Ngạn (xã Nhơn Thạnh Trung, thành phố Tân An ), Huỳnh Văn Xem (xã Mỹ Lệ, huyện Cần Đước), Nguyễn Văn Nhị (xã Long Sơn, huyện Cần Đước)... Nghệ thuật đờn ca tài tử sớm được hình thành với sự có mặt của Đức nghệ nhân Nguyễn Quang Đại đào tạo nên nhiều nhạc sĩ tài năng. Long An còn là nơi sinh thành của nhạc sĩ Cao Văn Lầu - tác giả bản Dạ cổ hoài lang, tiền thân của bài Vọng cổ ngày nay. Đầu thế kỷ XX, một tác phẩm quan trọng về cổ nhạc đã ra đời trên đất Long An, là quyển sách Cầm ca tân điệu của Lê Văn Tiếng và Trần Phong Sắc, tập hợp gần như đầy đủ các bản đàn và lời ca nhạc cổ cho đến lúc bấy giờ.
        Từ cuối thế kỷ XIX, việc học hành ở Long An dần phát triển, hình thành giới trí thức nho học có khả năng sáng tác và thưởng thức văn học viết. Từ khoa thi hương đầu tiên của triều Nguyễn tổ chức ở Nam Kỳ (đầu thế kỷ XIX) đến khi Pháp xâm lược, Long An có 29 người đỗ hương cống, cử nhân. Tầng lớp trí thức này đã dùng ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược và ca ngợi những tấm gương vì nước hy sinh của các anh hùng, liệt sĩ, phản ánh sinh động cuộc chiến đấu ấy của nhân dân Long An, hòa tiếng nói của mình vào cuộc chiến đấu chống xâm lăng của dân tộc. Đó là Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861), Cáo thị, Thảo thử hịch, Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương ĐịnhVăn tế Trương Định (1864), Mười bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874), Dương Từ - Hà Mậu Ngư tiều y thuật vấn đáp của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888); Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Kỳ Xuyên văn sao, Kỳ Xuyên công độc, Độn Am thi văn tập, Ngọa du sào tập, Dưỡng chính lục của Nguyễn Thông (1827-1884); Hịch kêu gọi nhân dân của Phan Văn Đạt (1828-1861); những bài thơ chữ Nôm thể hiện tâm trạng đau xót trước cảnh nước mất, nhà tan của Cù Khắc Kiệm; tập thơ chữ Hán của Trà Quý Bình (1828-1894) được Nguyễn Thượng Hiền đánh giá là tuy chưa có phong cách của bậc đại gia nhưng đã hơn đời; những bài thơ Nôm lên án triều đình cắt đất cầu hòa và thể hiện ý chí bất khuất trước quân xâm lược Pháp của Lê Tăng Quýnh; bài thơ tứ tuyệt của Đoàn Ngọc Thơ (1806-1876) gửi Nguyễn Đình Chiểu bày tỏ tình bằng hữu và lòng ưu thời, mẫn thế trước vận nước của một sĩ phu; bài thơ lục bát Cuộc nổi dậy giết Đốc Phủ Ca và bài vè Côn Lôn truyện của Lê Doãn Hài; bài L phong gia huấn viết bằng thể lục bát, dài hơn 1.000 câu, có nội dung khuyên răn con cháu về lễ nghĩa ở đời và một số bài thơ Nôm hóm hỉnh, trào phúng của Lê Hoằng Diễn (1882-1933) ...
         Sang đầu thế kỷ XX, đất Long An có dịch giả Trần Phong Sắc với vốn Hán học uyên thâm, sành cầm kỳ thi họa, dịch hơn 40 bộ truyện Tàu được phát hành rộng rãi trên toàn quốc, trở thành người nổi tiếng trong nền văn học trước Cách mạng tháng Tám. Tân An còn có Đào Văn Hội, tác giả sách Tân An Ngày Xưa - một dạng địa phương chí xuất bản đầu tiên ở Nam Kỳ...
Đặc điểm lịch sử - văn hóa và truyền thống văn học - nghệ thuật ấy là nền tảng cho họat động này trong công cuộc chống ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng quê hương, đất nước về sau.
Ngay từ buổi đầu chống Pháp xâm lược, hoạt động văn học nghệ thuật của các sĩ phu và trí thức yêu nước như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Phan Văn Đạt, Cù Khắc Kiệm, Trà Quý Bình, Lê Doãn Hài, Lê Hoằng Diễn, Trần Phong Sắc, Nguyễn Quang Đại, Cao Văn Lầu, Nguyễn An Ninh, Võ Công Tồn… đã cổ vũ cho tinh thần yêu nước chống Pháp quật cường của các tầng lớp nhân dân.
      Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) lãnh đạo cách mạng, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc kết hợp với đấu tranh giai cấp, văn học nghệ thuật thực sự trở thành vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, từ những năm đầu “Kháng chiến văn hóa hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, văn học nghệ thuật góp phần bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, giữ vững niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng lãnh đạo. Từ năm 1947, khi Ty Thông tin hai tỉnh Tân An - Chợ Lớn được thành lập, hoạt động văn học nghệ thuật càng đóng vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền cách mạng, mà căn cứ Đồng Tháp Mười trở thành “điểm sáng” trong cuộc kháng chiến chín năm, góp phần vào thắng lợi chung.
        Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, văn học nghệ thuật Long An, Kiến Tường hoạt động tích cực và hiệu quả, góp phần vào công cuộc đấu tranh giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu của đồng bào và chiến sĩ, cổ vũ cho khát vọng hòa bình thống nhất đất nước. Sự ra đời của Đội Văn nghệ Măng Non (tiền thân của Đoàn Văn công Long An), tập san Văn nghệ Long An, Văn nghệ Quân giải phóng ở Long An, Đoàn Văn công, Phân hội Văn nghệ Kiến Tường, tập san Văn nghệ Kiến Tường ở Kiến Tường khắc họa sinh động hình ảnh và phẩm chất anh hùng của vùng đất “Long An trung dũng kiên cường, toàn dân đánh giặc”, “Tháp Mười anh dũng”. Năm 1964, Đại hội Văn nghệ tỉnh Long An lần thứ nhất được tổ chức, bắt đầu củng cố các đoàn văn công, phát động sáng tác và ra mắt Phân hội Văn nghệ Vàm Cỏ, thành viên của Hội Văn nghệ “R”. Từ đây, nở rộ những cây bút, văn nghệ sĩ tiêu biểu của thời chống Mỹ như Lê Thanh Châu, Hai Nghĩa Bình, Lê Hoàng Mai, Trần Văn Thiều, Phan Khương, Minh Tuyết, Thanh Nhàn, Trương Văn Sáu, Võ Hoàng An, Hà Mạnh Đức, Trần Đình Vân, Nguyễn Thi, Giang Nam, Lê Anh Xuân, Hoài Vũ, Lê Lam, Huỳnh Văn Gấm, Nguyễn Đức Lưu, Thanh Chi, v.v… Nhiều văn nghệ sĩ đã trực tiếp cầm súng chiến đấu và hy sinh anh dũng như: Hà Mạnh Đức, Lê Anh Xuân, Trần Văn Thiều, Mười Thống Nhất, Hai Nghĩa Bình, Sáu Thu, Phan Khương, Hai Minh, Tư Mỹ, Nguyễn Phước, Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Trọng Hùng, Lê Hoàng Mai… Nhiều tác phẩm đi cùng năm tháng, gắn liền với lịch sử hào hùng của mảnh đất hiền hòa, nghĩa tình mà anh dũng. Tất cả đã góp phần hun đúc, xây đắp nên tượng đài văn học nghệ thuật của quê hương Long An và miền Nam thành đồng Tổ quốc, làm tiền đề và nền tảng vững chắc cho thời kỳ xây dựng.
        Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975), văn học nghệ thuật Long An quy tụ lực lượng, thống nhất trong hệ thống của ngành Thông tin - Văn hóa, cùng với sự ra đời của Tạp chí Văn nghệ Vàm Cỏ, Đài Phát thanh Long An (tiền thân của Đài Phát thanh và truyền hình Long An), tạo thêm nhiều “kênh” cho hoạt động sáng tác, biểu diễn bên cạnh “sân chơi” chuyên nghiệp là các đoàn nghệ thuật…, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng, khôi phục sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa, từng bước ổn định đời sống nhân dân.
Đầu năm 1982, Phòng Văn nghệ tách khỏi Ty Thông tin - Văn hóa. Ngày 1-3-1982, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh (gọi tắt là Hội Văn nghệ Long An) được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai Phân hội Văn nghệ Long An và Kiến Tường. Giai đoạn 1982 -1990 chứng kiến những nỗ lực lớn lao của Hội Văn nghệ trong bối cảnh đầy khó khăn, bức bách của thời kỳ thực hiện cơ chế tập trung bao cấp, nhưng đội ngũ văn nghệ sĩ với lòng yêu nghề vẫn không ngừng sáng tác, biểu diễn để duy trì và củng cố tổ chức Hội. Đặc biệt, Báo Văn nghệ Long An - “tiếng nói” của văn nghệ sĩ tỉnh nhà không ngừng được cải tiến về nội dung, hình thức và công tác phát hành, là sự tiếp nối xứng đáng tạp chí Văn nghệ Vàm Cỏ, trở thành diễn đàn văn học nghệ thuật trung tâm trong tỉnh, đồng thời Hội từng bước mở rộng quy mô với sự hình thành các chi hội chuyên ngành như Văn học, Nhiếp ảnh, Âm nhạc, Mỹ thuật, Điện ảnh truyền hình, Kiến trúc sư (1988), Sân khấu (1989), từ 25 hội viên  năm 1982, phát triển lên hơn 110 hội viên  vào năm 1990.
       Tháng 5/1990, Hội Văn học nghệ thuật Đại hội lần thứ nhất (nhiệm kỳ 1990-1995) tổng kết thành tựu 15 năm sau ngày giải phóng và 8 năm sau ngày thành lập Hội, trong bối cảnh đất nước bị tác động tiêu cực từ tình hình thế giới khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Hội đã nỗ lực, xác định rõ chức năng nhiệm vụ, vai trò của người văn nghệ sĩ trên mặt trận văn hoá tư tưởng, tích cực nâng cao chất lượng sáng tác, chương trình biểu diễn, củng cố và phát triển tổ chức đủ sức đảm trách nhiệm vụ trong tình hình mới. Hội phát triển 76 hội viên, nâng tổng số hội viên lên hơn 170 (trong đó có 28 hội viên chuyên ngành Trung ương) với hơn 50 giải thưởng các loại.
        Từ ấy đến nay, trải qua 7 kỳ đại hội, văn học nghệ thuật tỉnh nhà không ngừng lớn mạnh với đội ngũ văn nghệ sĩ, vững vàng về tư tưởng và tổ chức, phát triển vững chắc, đúng hướng, vững niềm tin và dấn thân vào thực tiễn cuộc sống, gắn bó mật thiết với nhân dân, trách nhiệm trước công cuộc đổi mới đất nước. Từ năm 2001, Giải thưởng Văn học nghệ thuật Nguyễn Thông ra đời, sau đó là Quỹ hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật Việt Nam, đã động viên tinh thần sáng tạo và tiếp thêm động lực nghệ thuật của văn nghệ sĩ tỉnh nhà. Nhờ đó, văn học nghệ thuật tỉnh nhà phát hiện tài năng mới, bồi dưỡng thế hệ kế cận, tăng cường phát triển hội viên, đầu tư nâng cao chất lượng tác giả, tác phẩm, đẩy mạnh hoạt động thâm nhập thực tế, mở trại sáng tác, quảng bá, triển lãm, tổ chức biểu diễn giới thiệu và trao đổi tác phẩm, đa dạng việc hỗ trợ sáng tạo, tích cực tham gia hoạt động sáng tác… Vì vậy, số lượng tác phẩm nhiều và phong phú hơn ở tất cả các chuyên ngành. Đội ngũ văn nghệ sĩ phát triển mạnh, hội viên phát triển lên 504 hội viên thuộc các chuyên ngành: Văn học, Âm nhạc, Sân khấu, Nhiếp ảnh, Mỹ thuật, Văn nghệ dân gian, Điện ảnh - Truyền hình, Múa và Kiến trúc sư, trong đó có 151 hội viên chuyên ngành Trung ương. Nhiều hội viên được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ nhân dân gian, Nghệ sĩ nhiếp ảnh xuất sắc… Hàng năm, nhiều hội viên đạt giải thưởng cao văn học, nghệ thuật từ cấp khu vực trở lên. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh thực sự là “ngôi nhà chung” tập hợp lực lượng văn nghệ sĩ, đồng thời tạo ra môi trường tốt cho sự phát huy sáng tạo.
        61 năm văn học nghệ thuật Long An (1964 - 2025) trưởng thành trong chiến tranh ác liệt, 43 năm lớn mạnh trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1982 - 2025) không là một chặng đường dài trong lịch sử nhưng góp phần quan trọng làm nên bản sắc văn hóa trên vùng đất lưu vực đôi dòng sông Vàm Cỏ hiền hòa và thơ mộng. Kế thừa truyền thống văn hóa ngàn năm của dân tộc và lịch sử hàng trăm năm khai phá vùng đất này, văn học nghệ thuật Long An được định hình, mang đậm bản sắc truyền thống yêu nước, nhân hậu, thủy chung, “trung dũng kiên cường” và không ngừng phát triển dù phải trải qua bao thăng trầm, đánh đổi bằng trí tuệ, công sức và xương máu của bao thế hệ văn nghệ sĩ và nhân dân.
        Đó là kết quả của quá trình nỗ lực của từng hội viên, văn nghệ sĩ, vai trò lãnh đạo, điều hành, tập hợp lực lượng của tổ chức Hội, sự quan tâm của lãnh đạo tỉnh, mà trực tiếp là Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trong việc định hướng, sự phối hợp, hỗ trợ của các cấp, các ngành, tổ chức, cá nhân, nhất là sự hỗ trợ chuyên ngành của Ủy ban Liên hiệp toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và công chúng yêu thích văn học nghệ thuật. Đó còn là nguồn động viên lớn lao văn học nghệ thuật tỉnh nhà tiếp tục phấn đấu, phát huy hơn nữa thành quả đạt được cho chặng đường tiếp theo.
        Từ Hội Văn nghệ giải phóng (1964), Hội Văn học Nghệ thuật (1982) đến Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (2006), là chặng đường không ngừng phấn đấu xây dựng và trưởng thành của đội ngũ sáng tác, sáng tạo văn học nghệ thuật Long An giàu lòng yêu quê hương đất nước. Thành quả ấy qua các thời kỳ góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa và phát huy vào công cuộc chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, để lại những bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức - văn nghệ sĩ trong thời kỳ mới với những phẩm chất đoàn kết, dân chủ, sáng tạo, nhân văn, không ngừng vươn tới các giá trị của chân - thiện - mỹ “nhằm góp phần xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” – như Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) chỉ rõ... Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự quan tâm ủng hộ của các cấp, các ngành, sự tin tưởng của nhân dân, đội ngũ làm công tác văn học nghệ thuật tỉnh nhà sẽ hoàn thành xuất sắc sứ mệnh cao cả của những người nghệ sĩ - chiến sĩ trong thời kỳ lịch sử mới trên quê hương Long An giàu truyền thống cách mạng./.
                           ThS Nguyễn Tấn Quốc
                               Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Long An
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

THĂM DÒ Ý KIẾN

Đánh giá của bạn về Website này?

Tuyệt vời

Tốt

Trung bình

Không có gì để nói

Rất xấu

THỐNG KÊ

Đang truy cậpĐang truy cập : 17


Hôm nayHôm nay : 3259

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 112040

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 12337143