Theo các từ điển Việt
Đánh phá quàn là hình thức diễn xướng, thời lượng khoảng trên dưới một tiếng đồng hồ trước khi cất đám. Một nghệ nhân đóng vai thủ lãnh của nhóm sơn tặc, nghe tin mẹ (hay cha) chết, dẫn đám lâu la về lo việc an táng để báo hiếu. Nhân vật này hóa trang và phục trang giống kép hát bội, mang gươm, cầm đuốc từ ngoài sân nhà đám, múa hát những điệu bộ và bài bản của hát bội (cũng có nơi ca cải lương), từ từ tiến vào trước quan tài. Bên trong, một vài nghệ nhân khác đóng vai yêu quái xông ra hỗn chiến với anh ta. Đánh đuổi xong bọn yêu quái, anh đến trước bàn trong đọc lá triệu có ghi họ tên, tuổi…người mất. Xác nhận đúng là mẹ hay cha mình, anh ta khóc kể thảm thiết rồi ra lệnh cho bọn lâu la đưa về “sơn trại” an táng.
Nội dung đánh phá quàn đại khái là như vậy, còn sự tích thì sao? Chúng tơi tìm hiểu các vị cao niên am tường về tang sự thì có nhiều ý kiến khác nhau:
Có ý kiến cho rằng: quan tài của người mất quàn lại lâu ngày nên yêu ma bám vào rất nặng, khiêng không nổi phải dùng lối đánh phá quàn xua đuổi cho hết âm khí mới đem đi được (!). Bởi hiểu như vậy, nên có một số đám tang thuộc hạng nhà giàu, thuê cả một bộ phận phá quàn đến sáu, bảy người… đóng vai Tề Thiên Đại Thánh, Bát Giới, Sa Tăng đánh với bọn yêu quái qua các pha biểu diễn võ thuật, ăn thịt sống, phun lửa…
Có người nói: Vai thủ lãnh đám sơn tặc là nhân vật Hoàng Sào đời Đường Hy tông (874-888) ở Trung Quốc. Sào là một nông dân, con của một người bán muối, nhưng rất thông minh, văn võ kiêm toàn, đi thi đậu chức Võ cử trạng nguyên. Khi diện kiến, vua Đường thấy tân trạng nguyên mặt mày xấu xí, không xứng đáng làm quan, đuối Sào đi. Sào vô cùng căm tức, lên núi Thái Hành chiêu mộ hào kiệt, quân binh, lập ra một đảng cướp, chống lại triều đình.
Lại một ý kiến khác: Nhân vật đánh phá quàn là hiện thâ của các anh hùng Lương Sơn Bạc trong truyện Thủy Hử về thời nhà Tống (960-1246) ở Trung Quốc. Nhóm này bất mãn bọn vua phong kiến kém đức vô tài, nhũng nhiễu nhân dân, lên núi lập ra một đảng cướp chống lại triều đình thối nát với khẩu hiệu “thế thiên hành đạo”.
Khác với các ý kiến trên, sự tích sau đây, theo chúng tôi thì có cơ sở khả tin hơn cả, vì nó thuộc về truyền thuyết lịch sử mang nét đặc thù của xứ Đàng Trong mà vài thư tịch xưa có đề cập. Sách Ô Châu Cận Lục ghi: “Làm ma thì trong nhà múa hát trước quan tài, gọi là đưa linh”. Như vậy, việc muá hát trước quan tài đã có ở Đàng trong trễ nhất cũng từ thế kỷ thứ XVII dưới thời các chúa Nguyễn và lan dần vào Nam Bộ theo đoàn người đi mở cõi.
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của thì ghi ngắn ngọn một sự tích có liên quan đến đánh phá quàn: “Lía: Tên tục Văn doan, nguyên là người An nam, sinh đẻ tại phủ Qui Nhơn, còn nhỏ mà học võ rất có tài, sau muốn ra giúp nước, mắc quan nịnh yểm ức, thất chí qui lâu la làm ra một đảng ăn cướp rất lớn. Lấy một sự y có hiếu với mẹ, còn của cướp thì cho nhà nghèo, cho nên người ta có làm tập để đời”. Có lẽ một số người Nam Bộ quá “nhiễm” truyện Tàu nên có cách hiểu nhập nhằng giữa ba sự tích Văn Doan- Chàng Lía của Việt
Hồi vài thập niên đầu của thế kỷ XX, trên thị trường bán khá nhiều các loại ấn phẩm: sách, truyện, thơ, tuồng…trong đó có thơ Chàng Lía và tuồng hát bội Văn Doan diễn ca nói về cuộc đời của Văn Doan- Chàng Lía như trong Đại Nam Quốc Âm tự Vị đã ghi: “có làm tuồng tập để đời”. Tất nhiên trong thơ, tuồng có hư cấu theo truyền thuyết dân gian cho thêm hấp dẫn.
Chuyện kể rằng: Vào thời chú Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) tại phủ Qui Nhơn (Bình Định) có người tên là Văn Doan, bà con láng giềng và gia tộc gọi thân mật là “thằng Lía”. Lía mồ côi cha, nhà nghèo nên không được học hành nhưng rất có hiếu với mẹ. Thuở nhỏ, Lía phải đi chăn trâu mướn cho các phú nông, lấy tiền nuôi mẹ,nuôi em và lo cho mình ăn học. Lía thông minh, có sức mạnh hơn người nhất là có năng khiếu về võ nghệ, phần lớn là học lóm ở bạn bè mà học đâu nhớ đó, lại có nhiều mưu hay mẹo lạ, tánh tình bình dị, hài hòa nên được mọi người trong vùng mến mộ.
Ai về Bình Định mà coi/ Đàn bà cũng biết múa roi đi quyền
Câu ca dao trên chỉ ra quê hương của vua Quang Trung là vùng đất có truyền thống võ nghệ lâu đời, nhiều người rất giỏi võ, kể cả đàn bà. Võ BÌnh Định trở thành một môn phái nổi tiếng cả nước. Chàng Lía được sinh ra trên mảnh đất võ nghệ này, lại là người có năng khiếu nên đã sớm trở thành một võ sĩ tài ba bậc nhất trong vùng. Nhưng vì là bần cố nông, tay lấm chân bùn, cực khổ quanh năm suốt tháng nên Lía có ngọai hình rất xấu xí, cục mịch. Khi đến tuổi trưởng thành, Lía tham gia vào cuộc thi tuyển chọn văn nhân võ sĩ giúp nước. Đến trường võ dự thi, vì không có vàng bạc lo lót nên Lía bị quan chủ trường đuổi ra, không cho thi, lấy cớ là Lía có ngoại hình xấu xí. Phẫn uất tột cùng, Lía vào núi Tây Sơn, phía nam Truông Mây , quy tụ bạn bè và những người là nạn nhân của xã hội bất công, lập đảng cướp,được thuộc hạ tôn là “Thủ lãnh Văn Doan” với khẩu hiệu là “diệt ác phù nguy”. Triều đình nhiều phen đem binh đánh dẹp nhưng đều thất bại.
Một hôm, viên đầu mục tín cẩn của Văn Doan được tin bọn thương hồ mua gian bán lậu vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy trên sông Côn, y liền dẫn lâu la xuống núi để “ăn hàng”. Y bắt được một chiếc thuyền khá lớn, bảo bọn lâu la lục soát thuyền để đoạt thâu tài vật, vì ngỡ là thuyền buôn. Những người trên thuyền toàn là nông dân, không có vàng bạc, thuyền cũng không có hàng hóa, chỉ chở một vỏ áo quan và những vật phẩm vừa mới mua ở chợ, đem về làm đám tang cho một bà già. Bà già ấy chính là mẹ của thủ lãnh Văn Doan. Y cùng đám lâu la trở lại sơn trại, cấp báo thông tin cho thủ lãnh. Văn Doan vô cùng đau đớn, khóc kể thảm thiết, tự trách mình là con trưởng mà bỏ nhà ra đi nên không chu toàn bổn phận lúc mẹ lâm chung. Lâu la trong trại cũng buồn lây, mỗi người tự động chít khăn tang lên đầu để chia sẻ niềm đau cùng thủ lãnh. Văn Doan ra lệnh: một số ở lại giữ trại, còn bao nhiêu theo mình chuẩn bị một cuộc dạ hành bí mật trở lại quê nhà lo việc tống táng cho mẹ. Cuộc hành quân bí mật ban đêm với những qui định nghiêm ngặt: người ngậm thẻ, ngựa cất lạc.
Về phía triều đình, sau khi nhận được báo cáo của địa phương, ra lệnh cho phủ huyện nhân dịp này gài bẫy bắt cho kỳ được thủ lãnh sơn tặc Văn Doan. Phủ huyện, sai nha thừa biết Doan là người con chí hiếu, nghe tin mẹ chết nhất định sẽ về, nên bắt buộc tang gia phải “quàn” quan tài dài ngày, chờ đến khi con mồi sa lưới mới cho chôn cất. Mặt khác, cho binh lính mặc thường phục canh giữ quan tài và phục kích chung quanh nhà đám, chờ thời cơ.
Thủ lãnh Văn Doan cho dừng quân ở bìa rừng Truông Mây, nhờ viên đầu mục bí mật về nhà thám thính tình hình trước khi hành động. Phía nhà đám, vì quàn lâu ngày, khách viếng đã hết, bọn binh lính canh giữ cũng mệt mỏi, chán nản hóa ra lơi lỏng, thay phiên về nhà, số lính còn lại thì say, ngủ gục. Thủ lãnh Văn Doan chia quân làm hai đạo: tiền quân do mình chỉ huy vào cướp quan tài; hậu quân do viên đầu mục trấn thủ tại tam xa lộ (ngã ba đường) đánh đoạn hậu. Nếu bị truy kích, dùng mấy quả pháo cối đốt lên gây tiếng nổ để áp đảo tinh thần đối phương.
Về lại nhà xưa trong lúc đêm khuya, mọi người đều ngủ say vì quá mệt mỏi, Văn Doan vô cùng đau đớn không cầm được nước mắt khi nhìn thấy cái hồn bạch để trên linh tọa. Thì ra, theo cổ tục người ta dùng chiếc áo của người mẹ thắt buộc giống hình người làm hồn bạch để linh hồn mẹ có nơi nương tựa vì thân xác mẹ đã khâm liệm. Doan cúi đầu mặc niệm trước hồn bạch, hai hàng nước mắt chảy dài và có cảm giác như hồn mẹ phảng phất đâu đây đang trách mắng mình là đứa con bất hiếu vô nghì! Tay Doan rung rung cầm lá triệu có ghi tên tuổi mẹ, nghẹn ngào đọc từng chữ qua ánh sáng lờ mờ của mấy ngọn nến cũng đang rưng rưng nhỏ lệ! Đau lòng hơn khi Doan thấy trên bàn vong, gia tộc còn để dành chiếc khăn tang cho đứa con bất hiếu xa nhà, ghi trên đó hai chữ “Thằng Lía”! Tim Doan nhói đau. Cơn xúc động tột cùng, Doan quỵ xuống đất r ồi khóc òa lên! Nhưng rồi cũng nén đau thương, cảnh giác…Doan lấy khăn tang bịt lên đầu, đốt nhang, rót rượu, lâm râm khấn lại linh hồn mẹ tha tội cho đứa con bất hiếu! Tình thế cấp bách, không thể chần chừ, Doan vẫy tay làm hiệu cho bọn lâu la vào đứng hầu sẵn hai bên quan tài. Doan lên lưng ngựa quan sát, rồi dùng cặp binh phù là hai thẻ tre gõ nhịp làm hiệu c ho bạn lâu la từ từ chuyển linh cửu ra khỏi nhà. Hành động của Văn Doan và bọn lâu la liền bị binh lio1nh phát hiện. Trận hỗn chiến xảy ra. Viên đầu mục kịp thời mang lâu la đến tiếp ứng cho Văn Doan. Bọn lâu la đốt lên hàng trăm nghọn đèn sào sáng rực cả một vùng, vừa đánh vừa la hét vang trời dậy đất, đồng thời cho nổ mất trái pháo cối làm rung động cả núi rừng! Bọn binh lính phủ huyện một phen bạt vía kinh hồn, rút lui mất dạng! Công việc báo hiếu của Văn Doan thành công tốt đẹp.
Sau đó một thời gian, trong một cuộc thanh toán bọn tham quan ô lại ở phủ Qui Nhơn, Văn Doan bị viện binh của triều đình bao vây bắt được. Doan bị kết án tử hình , nhóm cướp của Doan tan rã!
Lú bấy giờ, người dân trong vùng coi việc làm của Văn Doan là có đạo lí, vì Doan “muốn ra giúp nước mắc quan nịnh yễm ức” và hơn nữa “lấy một sự y có hiếu với mẹ, còn của cướp thì cho người nghèo”. Rõ ràng cái đạo lí đó đã được Văn Doan thể hiện một cách thiết thực: Chữ trung đối với nước, chữ hiếu đối với mẹ, chữ nhân đối với người nghèo, chữ dũng đối với bọn cường quyền phong kiến.
Ngày nay, xứ Bình Định vẫn còn truyền tụng câu ca dao nói lên tình cảm của người dân đối với Văn Doan- Chàng Lía: “ Chiều chiều én liệng Truông Mây/ Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành”.
(còn tiếp)
Đỗ Văn Đồng
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 14
Hôm nay : 4312
Tháng hiện tại : 67947
Tổng lượt truy cập : 10538993