Tôi có người bạn đồng hương Cần Đước tên Hồ Văn Bún – nguyên Chủ tịch Hội Nông dân huyện Vĩnh Hưng. Mỗi lần về Vĩnh Hưng công tác, tôi thường ghé thăm bạn, đôi khi ngủ lại nhà bạn, chén thù chén tạc đến tận khuya.
Tôi và Bún nhà gần nhau ở huyện Cần Đước. Hai đứa học chung lớp từ khi mới chập chững váo lớp Năm (lớp Một bây giờ) cho tới khi tốt nghiệp trung học phổ thông. Nhà nghèo như nhau, chúng tôi đã biết ra đồng phụ mẹ từ khi lên năm, lên bảy. Mẹ cuốc đất, chúng tôi nhổ cỏ; mẹ cấy lúa, chúng tôi bỏ mạ; mẹ gặt lúa, chúng tôi phơi lúa… Học xong phổ thông, Bún thi vào ngành Nông nghiệp, ra trường anh xin về công tác Vĩnh Hưng vì “ở đó có nhiều ruộng để mần” như lời của anh. Anh thành rể, rồi thành nông dân chính hiệu vùng Đồng Tháp Mười với hơn sáu hecta ruộng trồng lúa của cha mẹ bên vợ cho và do vợ chồng anh làm lụng tích lũy mua thêm.
Một lần ghé Vĩnh Hưng thăm bạn vào ngày nghỉ cuối tuần, người nhà cho biết Bún đang “đi cấy” và chỉ đường cho tôi chạy thẳng ra ruộng. Theo chỉ dẫn, tôi tìm tới cánh đồng ở xã Vĩnh Thuận, nhưng tìm mãi mà chẳng thấy đám cấy nào. Một lúc sau tôi cũng tìm thấy bạn đang đứng loay hoay trên bờ, còn dưới ruộng có chiếc máy gì đó đang chạy do một người phụ nữ điều khiển. “Máy cấy chứ máy gì!”, Bún nói mà như trêu khi tôi hỏi “máy gì” lúc vừa gặp nhau. Tôi giật mình, khen ông nhạc sĩ Hoàng Vân nhìn xa như thánh! Cách đây hơn bốn mươi năm, khi trên đồng ruộng chỉ có các dì “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” cấy lúa, người nhạc sĩ của “Hát về cây lúa hôm nay” đã dám viết “Những chàng trai đang lái máy cày – Và bao cô gái sẽ ngồi máy cấy”. Trước mắt tôi một “cô gái” bằng xương bằng thịt đang “ngồi máy cấy”, chiếc máy chạy qua để lại phía sau từng hàng lúa ngay ngắn, thẳng tắp. Cùng với tiếng rì, rì của máy cấy là lời của bạn tôi: “Một chiếc máy có thể cấy bằng một trăm thợ cấy, mỗi hecta chỉ cấy mất vài giờ, tốn khoảng sáu lít dầu. Cấy bằng máy, khoảng cách cây lúa đều, mạ bám vào đất chắc hơn so với cấy tay…”.
Nhìn chiếc máy cấy mà tôi nghĩ thương mẹ và các dì thuở xưa, nhiều bữa mưa bão mà vẫn dầm mưa cấy lúa; mưa làm ruộng bị ngập sâu, cây mạ vừa cấy bám đất không tốt bị nổi lềnh bềnh, mẹ và mấy dì phải đi dặm lại. Nếu mẹ tôi còn, được nhìn thấy chiếc máy cấy, chắc là bà vui thích lắm! Chỉ cần bỏ mạ lên băng chuyền, máy vừa chạy vừa động tự cấy, hàng lúa thẳng tắp, cách nhau đều đặn khoảng 25cm, không một cây bị nổi. Bạn tôi “khoe” tiếp: Không chỉ thay thế công lao động, máy cấy còn giúp rút ngắn thời gian gieo sạ, giảm chi phí về giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật... Nếu gieo sạ bằng tay phải cần hai trăm ký lúa giống mỗi hecta, còn gieo mạ và cấy bằng máy chỉ sử dụng khoảng sáu mươi ký. Không chỉ vậy, lúa cấy máy cứng cây, ít sâu bệnh, giảm được chi phí thuốc bảo vệ thực vật và giảm lượng phân bón; lúa khi chín không bị đổ ngã, dễ thu hoạch, năng suất cao hơn, lợi nhuận cũng cao hơn so với phương pháp sạ thường.
Chúng tôi đi trên những bờ đê thẳng tắp, bên những dòng kênh nước đục ngầu phù sa. Dưới chân đê, tiếng máy bơm điện chạy “re, re” phun lên đồng dòng nước trắng xóa. Bún cho biết, bơm điện đã giúp tưới tiêu phần lớn ruộng lúa nơi đây, giúp nông dân chủ động thời vụ, giảm chi phí sản xuất gần một triệu đồng/hecta so với xài máy bơm dầu. Bún kể, trong nhà anh vẫn còn giữ mấy chiếc gàu dai, gàu sòng làm kỷ niệm một thời vợ chồng anh vất vả tát nước cứu lúa. Từ tát nước bằng gàu đến tưới tiêu bằng máy bơm dầu, rồi bằng bơm điện, nông dân Vĩnh Hưng nói riêng, vùng Đồng Tháp Mười nói chung đã tiến những bước quá dài trên con đường hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp!
“Bơm điện mà ăn thua gì, cái này mới là độc đáo!”, Bún vừa nói vừa dừng xe trước một thửa ruộng có chiếc “máy cày” đang làm đất. “Máy cày thay cho trâu có gì mà độc đáo, chuyện thường thôi mà!”, tôi nói với bạn. Bún tủm tỉm cười: “Nhìn kỹ đi bạn, không phải là máy cày bình thường mà là máy san phẳng mặt ruộng bằng tia laser đó!”. Tia laser! Thứ tia sáng hiện đại dùng để cắt kim cương, chế tạo vũ khí, xài trên tàu vũ trụ…lại giúp nông dân làm ruộng! Bạn cung cấp cho tôi những kiến thức vỡ lòng: Vài năm trở lại đây, nông dân Đồng Tháp Mười đã sử dụng máy san phẳng mặt ruộng bằng tia laser. Sử dụng công nghệ hiện đại này giúp khắc phục độ chênh mặt ruộng, ruộng không còn bị lồi lõm, nhờ đó mà giảm được lượng nước, lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu,… Bấy giờ tôi mới để ý thấy chiếc máy xới đất không làm việc như máy cày bình thường, mà còn kéo theo sau một thùng “công tác”, trên thùng có bộ phận nhận phát tín hiệu luôn chớp chớp đèn. Trên bờ ruộng, ở một nơi cao ráo, có một thiết bị đặt trên chân máy luôn quay vòng, đèn chớp chớp. Vẫn là giọng của thằng bạn nông dân: “Đó là bộ phát laser được gắn trên trụ cố định, phát chùm tia laser tỏa ra chung quanh, đưa tín hiệu đến chiếc máy kéo chạy trên ruộng. Bộ phận nhận laser gắn trên máy kéo sẽ tự động xử lý tín hiệu, cho biết cao độ nơi máy kéo chạy qua so với độ cao muốn có, từ đó máy kéo “lấy” đất (ở những chỗ cao) hoặc “nhả” đất (ở những nơi thấp). Bằng cách ấy máy sẽ giúp cho thửa ruộng trở nên bằng phẳng gần như tuyệt đối, độ dốc bằng không, giúp ích rất nhiều cho việc canh tác lúa sau đó”.
Thật kỳ diệu, thứ tia sáng tưởng như cao siêu, xa xỉ lại trở nên thông dụng giúp người dân làm ruộng cho năng suất cao hơn. Thấy có khách, người chạy máy san phẳng ruộng dừng tay. Nhìn cái cách chào hỏi giữa Bún và người điều khiển chiếc máy tên Minh, tôi biết rằng họ đã quá thân quen. Nhấp ngụm trà và châm điếu thuốc “ba số”, Minh chia sẻ: Anh là một trong những nông dân vùng Đồng Tháp Mười tiên phong ứng dụng công nghệ san phẳng mặt ruộng bằng tia laser, đến nay đã gần sáu năm. Công nghệ này giúp anh giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, từ đó mà anh trở thành nông dân sản xuất giỏi. Theo anh Minh, những năm gần đây hầu hết thanh niên nam nữ khi lớn lên đều rời khỏi đồng ruộng để đi làm ở các khu công nghiệp, nhân công cho sản xuất lúa những khi vào mùa vụ trở nên khan hiếm. Nhờ áp dụng cơ giới hóa vào đồng ruộng mà gia đình anh và bà con trong vùng giải được bài toán thiếu công lao động. “Canh tác lúa theo hướng ứng dụng công nghệ cao vừa giảm công lao động, vừa góp phần giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất, hướng đến nền nông nghiệp bền vững, hiện đại”. Tôi không tin là tai mình vừa nghe lời của anh nông dân vùng Đồng Tháp Mười chứ không phải bài giảng của một cán bộ tuyên giáo! Đã qua rồi cái thời người nông dân Đồng Tháp Mười phần nhiều dốt chữ, phó mặc đồng ruộng cho trời và nước lũ, mãi tìm thú vui bên chai rượu đế và mồi nhậu là chuột, rắn, rùa luôn có sẵn.
Rời đám ruộng “tia laser”, trời đã xế chiều, Bún đưa tôi dạo một vòng chợ huyện Vĩnh Hưng để tìm mua những món đặc sản về làm mồi nhậu. Lần này cũng vậy, Bún không cho tôi ngủ nhà trọ mà bắt về nhà mình nghỉ qua đêm, một căn nhà lầu nơi phố huyện. Đã bao năm rồi mà bạn vẫn vậy, không bao giờ uống bia, chỉ uống loại rượu nếp đặt một người quen nấu. Nửa chừng tiệc rượu, bạn bất ngờ hỏi tôi: “Mày có thích phiêu lưu một đêm không?”. Tôi trố mắt chưa hiểu chuyện gì, Bún từ tốn nói tiếp: “Khuya nay mình đi xem nông dân sử dụng máy bay phun thuốc trừ sâu”. Tôi như tỉnh rượu, hỏi tới. Bún không trả lời mà bấm điện thoại: “A lô, Mười Bún đây! Khuya nay có bay không? Bay xã nào? Mấy giờ khởi hành? Ờ, giờ đó chúng tôi sẽ có mặt”. Bạn và tôi uống thêm vài ly nữa rồi nghỉ để khuya dậy sớm đi “bay”. Sau một ngày đi đường, cộng với một xị rượu, tôi đã dễ dàng chìm vào giấc ngủ ngon trong tiếng ro re không phải của “muỗi kêu như sáo thổi” ở vùng Đồng Tháp Mười, mà là tiếng máy lạnh trong phòng khách ở nhà người bạn cũ.
Hai giờ rưởi sáng Bún đánh thức tôi dậy để đi “bay”. Bạn chở tôi bằng xe gắn máy đi hơn mười cây số vào xã Tuyên Bình Tây. Trên đường đi, Bún tranh thủ giải thích với tôi về chuyện “bay đêm”: Một trong những công việc nông dân trồng lúa ngán ngại nhất là phun thuốc trừ sâu, vì rất độc hại cho người phun. Khi đồng ruộng ngày càng hiếm nhân công thì chuyện thuê người phun thuộc trừ sâu càng trở nên nan giải. Thời gian gần đây xuất hiện một phương tiện phun thuốc trừ sâu hiện đại, giúp người nông dân giải được bài toán khó, đó là máy bay phun thuốc tự động. “Nhưng sao phải phun thuôc vào ban đêm, không phun ban ngày cho tiện?”, tôi hỏi. Bạn giải thích: Khi lúa còn non, phun thuốc ban ngày có thể ảnh hưởng đến lá lúa, nên chủ ruộng thường yêu cầu phun ban đêm, nhờ sương khuya đã phủ đều trên lá lúa mà thuốc không ngấm thẳng vào lá làm ảnh hưởng đến cây lúa. Còn lý do khác, do sâu rầy luôn hoạt động ban đêm, còn ban ngày ẩn bên trong cuống lúa, nên phun thuốc ban đêm sẽ có tác dụng tiêu diệt sâu rầy tốt hơn.
Chúng tôi đến nơi hẹn lúc gần ba giờ sáng. Đó là nhà của anh Nguyễn Văn Xe, người chủ chiếc máy bay phun thuốc trừ sâu. Chủ nhà mời chúng tôi ly ca phê tự pha, trong khi những người làm công cho anh chuẩn bị đồ nghề cho chuyến bay. Vừa uống cà phê, anh Xe vừa chia sẻ: Gia đình anh có gần mười hecta ruộng. Đồng ruộng ngày càng hiếm công lao động nên cha con anh phải thường xuyên tự phun thuốc bằng bình xịt, có lần con anh bị ngộ độc thuốc phải nằm viện. Cách đây hai năm, thấy trên mạng rao bán máy bay phun thuốc trừ sâu tự động, anh quyết định bỏ ra hơn nửa tỉ đồng để sắm chiếc T20 về phun thuốc ruộng nhà. “Thà mất tiền hơn mất sức khỏe”, anh Xe nói. Máy về hoạt động đã cho hiệu quả tức thì, không chỉ giúp bảo vệ sức khỏe, phun thuốc trừ sâu bằng máy bay còn giúp giảm lượng thuốc phun, hiệu quả trừ sâu rầy cũng tốt hơn so với phun thủ công vốn chỉ thực hiện được ban ngày. Nông dân trong vùng thấy máy bay phun thuốc quá hiệu quả đã thuê anh Xe phun giúp họ. Chỉ hơn một năm sau đã lấy lại vốn chiếc T20, anh bỏ tiếp gần một tỉ đồng mua thêm chiếc T30 có công suất lớn hơn.
Trong khi chúng tôi uống cà phê và trọ chuyện thì hai người làm công của anh Xe đã cho chiếc máy bay nằm gọn gàng trên xe máy. Anh Xe giới thiệu về hai thanh niên làm công cho mình: Một người tên Bình trước đây chuyên dắt mối người Việt Nam đi đánh bạc ở các casino bên kia biên giới; người còn lại tên Ba từng đi làm công nhân ở xa. Sau khi mua máy bay phun thuốc, anh Xe đã nhận họ và đưa đi đào tạo nghề gần mười ngày, trước khi về vận hành chiếc máy bay. Giá phun thuốc bằng máy bay mỗi hecta hơn một trăm ngàn đồng, trong đó phần của hai người làm công là ba mươi ngàn đồng. Mỗi ngày “bay” được trung bình năm mươi hecta, chia ra mỗi người được hơn bảy trăm ngàn đồng, mức thu nhập cao hơn nhiều so với dắt mối đánh bạc hoặc làm công nhân, công việc lại ổn định, gần nhà. Chia tay người chủ máy bay, tôi và Bún đi theo hai người làm công cùng chiếc máy bay ra đồng, trong khi anh Xe và một người làm công khác chuẩn bị chiếc máy bay còn lại để đi “bay” hướng khác.
Bốn bề tối đen như mực, chúng tôi chạy theo ánh đèn xe của hai người làm công trên bờ đê. Xe dừng lại, hai anh Bình và Ba nhẹ nhàng cho chiếc máy bay xuống đặt ở góc ruộng. Không nói một lời, hai người lẳng lặng thao tác một cách nhanh nhẹn, chính xác, từ lắp đặt thiết bị lên máy bay, pha chế thuốc, thiết lập đường bay trên chiếc laptop, khởi động máy… Tôi quan sát thấy chiếc máy bay to bằng chiếc va ly, trên có sáu cánh quạt đường kính chừng sáu tấc, trên thân máy bay có bình chứa thuốc trừ sâu. Bún giải thích cho tôi: Công đoạn cuối cùng phải làm trước khi cho máy bay cất cánh là lấy tọa độ của thửa ruộng cần phun thuốc bằng cách định vị bốn góc ruộng. Sau đó máy vi tính vẽ đường bay cho máy bay và máy sẽ làm việc tự động theo chương trình đã được lập. Trên mỗi đường bay, máy bay phun thuốc trên hành lang rộng khoảng ba mét, đến cuối thửa ruộng, máy bay tự động quay lại và phun tiếp hành lang liền kề. Khi hết thuốc, máy bay tự động quay về nơi xuất phát để nạp thêm thuốc. Cứ thể cho đến khi hết thửa ruộng, mỗi hecta chỉ mất năm đến bảy phút phun thuốc.
Mất khoảng mười phút chuẩn bị, sau khi yêu cầu mọi người lùi xa, anh Bình nhấn nút điều khiển trên thiết bị cầm tay, các cánh quạt quay nhanh dần và chiếc máy bay cất cánh bay mất hút vào bóng đêm mang theo hai mươi lít dung dịch thuốc trừ sâu. Dù máy bay phun thuốc chỉ ở độ cao khoảng ba mét so với mặt ruộng, nhưng thuốc trừ sâu khi phun ra có thể khuếch tán ra xa, vì vậy để bảo vệ sức khỏe cho đội bay, những người vận hành phải ngồi cách đám ruộng phun thuốc ít nhất một trăm mét. Tôi đâm lo, liệu chiếc máy bay phun thuốc có giá hơn nửa tỉ đồng rồi sẽ quay trở về. Người thanh niên tên Bình vừa kéo hơi thuốc cho ấm, vừa nói một cách kiệm lời: “Từ khi tui đi làm tới giờ, chưa khi nào có trường hợp máy bay phun thuốc bay lạc. Chỉ có một lần nó bị rớt do va vào cây tràm gãy cánh, phải sửa tốn mấy chục triệu đồng”. Hơn năm phút sau, tôi nghe tiếng cánh quạt máy bay rõ dần, rồi chiếc máy bay hạ cánh xuống đúng vị trí mà nó đã xuất phát. Những người thợ lại nhanh nhẹn tiếp thuốc trừ sâu đã pha sẵn, chiếc máy bay lại lầm lũi cất cánh bay vút vào bóng đêm.
Bạn tôi cho biết, hiện trong huyện Vĩnh Hưng xã nào cũng có nông dân sắm máy bay phun thuốc, có xã có đến bốn năm máy. Nhờ đó mà đã có hơn tám mươi phần trăm diện tích ruộng lúa trong huyện được phun thuốc trừ sâu bằng máy bay. Tôi và Bún theo đội bay di chuyển qua bốn thửa ruộng thì trời bắt đầu sáng. Chúng tôi chia tay đội bay ra về, trong khi họ còn tiếp tục công việc phun thuốc. Trên đường về, tôi thấy nhiều nông dân rải phân trên những thửa ruộng dài mút mắt. Tôi thầm nghĩ, với sự tiến bộ không ngừng của nông dân vùng Đồng Tháp Mười, sẽ không bao lâu nữa việc rải phân rồi cũng sẽ do máy móc thực hiện giống như chuyện cày, chuyện cấy, chuyện phun thuốc trừ sâu. Khi ấy trên đồng ruộng sẽ rất ít người, thay vào đó là những chiếc máy chạy dưới đất và những cánh bay trên trời!