Thứ hai - 07/10/2024 21:29
NSND NGUYỄN THÀNH CHÂU VỚI DANH NGÔN “THẬT VÀ ĐẸP” NHƯ THẾ NÀO?
TS. Đỗ Quốc Dũng
Nghệ sĩ nhân dân (NSND) Nguyễn Thành Châu (Năm Châu) là một trong những nghệ sĩ tiền phong của Cải lương Nam Bộ. Ông là một nghệ sĩ lớn, bậc thầy Cải lương đã có những công đóng góp cho Cải lương Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng, trên nhiều lĩnh vực chuyên môn của loại hình nghệ thuật này. Đặc biệt, NSND Nguyễn thành Châu là một nghệ sĩ tiêu biểu có khuynh hướng mới cho Cải lương ngay từ giai đoạn đầu vừa định hình. Ông đưa ra quan điểm “Thật và đẹp”, cũng chính ông đã hiện thực hóa quan điểm của mình thành công và đến nay vẫn còn giá trị.
NSND Nguyễn Thành Châu sinh năm 1906 tại xã Lương Hòa Lạc, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Thời niên thiếu, ông được gia đình cho ra Mỹ Tho học tại Trường College de My Tho (nay là Trung học Nguyễn Đình Chiểu – Mỹ Tho), và ông đã lấy bằng Thành chung tại đây. Năm 16 tuổi ông bước vào Sân khấu Cải lương và không bao lâu ông trở thành một nghệ sĩ Cải lương Nam Bộ toàn năng, mà người trong nghề gọi “Tứ quý”: diễn viên xuất sắc, soạn giả hay, đạo diễn giỏi (thầy tuồng), và ông bầu quản lý tài ba.
NSND Nguyễn thành Châu hoạt động nghệ thuật cả cuộc đời trên dưới 60 năm (1920-1978), trên những lĩnh vực: Cải lương, điện ảnh, kịch nói…, mà Cải lương là chính. Ông đã cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật dân tộc. Ông là một trong những nghệ sĩ tiền phong của nền Sân khấu Cải lương Nam Bộ, đã có công định hình Sân khấu truyền thống này từ buổi bình minh của nó; và ông đã đưa ra quan điểm cho Cải lương “Thật và đẹp”, thành một danh ngôn đến nay vẫn còn giá trị.
Cơ sở lý luận “Thật và đẹp”
“Thật và đẹp” là hai phạm trù của triết học và mỹ học (Aristotle). Thế nhưng, ở vào thời đại đó, phần đông các soạn giả, nghệ sĩ biểu diễn và cả khán giả của Cải lương còn hạn chế về mặt lý luận, nên NSND Nguyễn Thành Châu không lý giải ý nghĩa khoa học mà chỉ tập trung ứng dụng vào nghề cụ thể.
Phạm trù “đẹp, cái đẹp” trong mỹ học, đó là sự nhận thức của con người về thiên nhiên, nghệ thuật và xã hội. Nghệ thuật trong mỹ học là cái đẹp hoàn chỉnh, nếu chưa hoàn chỉnh thì không thể gọi là đẹp. Nội hàm cái đẹp có hai dạng: cái đẹp tự nhiên và cái đẹp trừu tượng, nghệ thuật thuộc cái đẹp trừu tượng. Cái đẹp được khái niệm là cái hài hòa là biện chứng trong tổng thể một sự vật, hiện tượng… mang cảm giác hoàn thiện và trọn vẹn; và cái đẹp tập trung cao nhất là ở lĩnh vực nghệ thuật. Bởi vì, tính triết lý của cái đẹp là phạm trù chỉ giá trị thẩm mỹ tồn tại khắp mọi nơi, trong thiên nhiên, trong xã hội, ở con người cả vật chất lẫn tinh thần.
Có lẽ, ý thức từ cơ sở lý luận “Thật và đẹp”, NSND Nguyễn Thành Châu đã xây dựng một quan điểm cho Cải lương, và ông đã vận dụng lý luận vào thực tiễn thành công cụ thể qua bốn nội hàm của “Tứ quý”. Từ quan điểm này, ông là người sáng tạo nghệ thuật bằng sự trải nghiệm thực tiễn ban đầu trên sàn diễn với vai trò người diễn viên, góp phần xây dựng một quan niệm nghệ thuật nghiêm túc, chính đáng cho Cải lương từ những ngày định hình. Đó là nguyên lý của cái có thật, sự thật; mà “thật” với nghĩa tích cực bao giờ cũng là chân lý của nhân loại.
Cụ thể, từ gánh “Con Tằm”, “Việt Kịch Năm Châu” đến giai đoạn đầu của “Phước Chung” và những gánh sau đó, vai trò của NSND Nguyễn Thành Châu là rất quan trọng, là một trong những nhân tố góp phần đáng kể cho sự thành công. Biết rằng, mỗi nghệ sĩ Cải lương đều có biệt tài và những cống hiến nhất định cho nghề nghiệp và xã hội, nhưng NSND Nguyễn Thành Châu là một trong những nhân vật rất cá biệt trong nghề. Ông đã dựa vào cơ sở lý luận để chứng minh bằng thực tiễn và đạt đến thành công.
Tính biện chứng của “Tứ quý”
“Tứ quý” được hiểu là bốn cái quý hay bốn điều quý, là một từ trân trọng để chỉ tài nghề và đức tính của một con người, ở đây là trường hợp để nói về NSND Nguyễn thành Châu. Ông là một nghệ sĩ Cải lương kỳ tài với bốn khả năng chuyên nghiệp trong Cải lương: diễn viên xuất sắc, soạn giả hay, đạo diễn giỏi (thầy tuồng) và bầu gánh tài ba.
- Diễn viên xuất sắc
Con đường vào nghề của NSND Nguyễn thành Châu đầu tiên là diễn viên ở gánh hát Thầy Năm Tú (1920). Hầu như ông là người có nhiều ưu thế để trở thành nghệ sĩ lớn của Cải lương. Từ những thập niên đầu của thế kỷ XX của Cải lương Nam Bộ qua những gánh, vai Trang Tử trong Trang Tử thử vợ, Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên – Kiều Nguyệt Nga, Kim Trọng trong Kim Vân Kiều, Dương Tôn Bảo trong Mộc Quế Anh, An Lộc Sơn trong Đường Minh Hoàng, Ngô Phù Sai trong Tây Thi gái nước Việt… đều là những vai diễn xuất sắc của ông.
- Soạn giả hay đạo diễn giỏi
Nếu chỉ nói riêng về cuộc đời làm soạn giả của NSND Nguyễn Thành Châu thì ông đã để lại cho nghề khoảng 50 kịch bản Cải lương có giá trị như: Giọt lệ cương thường, Vẹn tấm lòng son, Sân khấu về khuya, Ngao – Sò - Ốc – Hến, Men rượu hương tình, Nợ dâu, Vợ và tình, Tây Thi cô gái Việt, Khi người điên biết yêu…; ngoài ra ông còn hợp soạn nhiều kịch bản khác với bút danh “Trang – Châu – Nở”. Đặc biệt, sau giải phóng (1975), NSND Nguyễn Thành Châu về viết cho quê hương ông (Tiền Giang) vở Bình Tây Đại Nguyên Soái nói về người anh hùng Trương Định chống Pháp, tử thủ đất Gò Công. Vở này được đạo diễn Văn Sinh dựng cho Đoàn Cải lương Tiền Giang I, vở đoạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc – 1985. Vở này còn có tên là Ngọn Cờ Đầu, NSND Nguyễn Thành Châu viết vào năm 1976, ông tạ thế vào ngày 21.04.1978 (bảy năm sau dựng lại dự Hội diễn).
- Bầu gánh quản lý tài ba
Vai trò của bầu gánh Cải lương ngày xưa, bây giờ tương đương với trưởng đoàn hát. Công việc quản lý đoàn hát là công việc rất phức tạp. Vì một tập thể làm nghệ thuật đa dạng, từ tính cách sống, chuyên môn, sinh hoạt của nhiều cá nhân, nhiều gia đình trong đoàn hát nên quan niệm sống, tuy có tính thống nhất trong tập thể nhưng không đồng nhất (con nhiều cha mỗi người một ý). Nhưng NSND Nguyễn Thành Châu đã làm tốt vai trò bầu gánh qua nhiều đại ban Cải lương Sài Gòn. Không những ông quan lý những đại ban thuần túy, mà có giai đoạn ông còn cùng tập thể quản lý đại ban Cải lương Phước chung, một mô hình Cải lương tập thể duy nhất ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Đặc biệt, Phước Chung là một đại ban Cải lương hoạt động tại Sài Gòn có sinh hoạt chi bộ Đảng.
Ở lĩnh vực Điện ảnh, NSND Năm Châu cũng đa tài không kém, ông từng viết kịch bản, làm đạo diễn và diễn viên các bộ phim như Quan Âm Thị Kính, Những tấm lòng vàng (1965), Người đẹp Bình Dương (1958), Người thợ vẽ (1959), Mưa ngâu (1960), Hai người mẹ, Thế hệ hai mươi (1961), Chiều kỷ niệm (1969), Con ma nhà họ Hứa (1971), Sợ vợ mới anh hùng, Quái nữ Việt Quyền Đạo, Năm vua hề về làng (1974)… đều được công chiếu và công chúng đánh giá cao.
Kết luận
Như vậy, đến đây, tính triết lý khoa học về danh ngôn “Thật và đẹp” đến thực tiễn “Tứ quý” của NSND Nguyễn Thành Châu đã rõ. Cụ thể, tính triết lý ấy đã vận dụng vào nghệ thuật Cải lương qua nhiều giai đoạn và đến hiện nay vẫn còn giá trị. Điều đó cũng chứng minh rằng, NSND Nguyễn Thành Châu là một nghệ sĩ của mọi thời đại. Hay là toàn bộ tố chất “Tứ quý” của ông từ thực tiễn đã được kiểm chứng qua lý luận “Thật và đẹp”. Có thể nói rằng, quan điểm nghệ thuật Cải lương của NSND Nguyễn Thành Châu là từ lý luận được vận dụng vào thực tiễn một cách biện chứng; ngày nay, Cải lương vẫn còn ứng dụng tốt.