Thứ sáu - 15/09/2017 10:04
Bàn Thiên - một dấu ấn thời khai hoang còn tồn tại
Bàn thiên - ảnh minh họa
Một vùng châu thổ rộng lớn do hai sông Mê Kông và Đồng Nai bồi đắp tạo thành một màu xanh bạt ngàn, gần như ba mặt trông ra đại dương bao la bát ngát, đất phương Nam quả là “rừng vàng biển bạc”, một món quà vô giá mà thiên nhiên dành ưu đãi cho lưu dân người Việt mặc sức khai khẩn. Lợi dụng thực vật đa loại sẵn có như tre, mây, cây, lá…ông cha ta chỉ dựng lều trại đơn sơ để giải quyết cho việc tạm cư, tạm canh trong buổi đầu lập nghiệp.
Những người đầu tiên đến “bới đất lật cỏ” mà hậu thế rất mực sùng kính và tôn xưng là “Tiền hiền khai khần” luôn mang tín ngưỡng truyền thống của quê hương bản quán từ vùng Thuận Quảng xa xôi, khi “đến đây xứ sở lạ lùng, chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê”, họ cảm thấy mình quá cô đơn nhỏ bé trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, chỉ còn biết đặt hết niềm tin vào đấng thiêng liêng tối cao, đó là ÔNG TRỜI. Phải , chỉ có Ông Trời là đấng quyền năng tuyệt đối, ở rất xa mà cũng rất gần loài người, ngữa mặt là thấy trời, cúi đầu là thấy đất.(ngưỡng diện kiến thiên, đê đầu thị địa).Trời là niềm tin, đất là hy vọng. Chỉ có Ông Trời mới có thể cứu khổ, cứu nạn cho người “chơn ướt chơn ráo” sống giữa bốn bề “cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy”! Thế là khái niệm thờ Ông Trời đã thực sự hình thành trong tư duy của người đi mở cõi.
Nhưng thờ Ông Trời bằng cơ ngơi nào cho phải lẽ? Thôi thì trong thời kỳ tạm cư, tạm canh âu cũng phải “tạm thờ”, miễn thể hiện được câu “hữu thành tắc linh”.Thế là cái BÀN THIÊN được… chào đời từ đó.
Với vật thể nầy có người gọi là BÀN ÔNG THIÊN nghĩa là bàn thờ Ông Trời; cũng có người gọi là BÀN THÔNG THIÊN với ý nghĩa “thông thiên triệt địa” là lời cầu nguyện của người thông đến trời, thấu cả đất. Nhưng đa số người dân Nam Bộ từ miền Đông tới miền Tây gọi gọn là BÀN THIÊN, ý nghĩa cũng như nhau.
Người xưa quan niệm “Trời tròn đất vuông”(thiên viên địa phương), trời cao rộng vô biên, cao không nóc, rộng không vách, nên việc thực hiện một BÀN THIÊN rất đơn gỉản: một cây cột tròn khoảng 1 tấc kính, dài cỡ ngang đầu người; một tấm ván hình vuông mỗi cạnh khoảng 3-4 tấc, giữa tấm ván đóng dính chắc vào đầu cột, thêm vài cây chỏi xéo ngắn cho tấm ván không lúc lắc, đầu cột còn lại vạc hơi nhọn, cắm xuống đất. Thế là xong cái BÀN THIÊN. Còn vị trí cắm ở đâu, chúng ta cần bàn cho rõ ý nghĩa.
Người xưa lấy thân mình làm chủ thể để suy ra nguyên tắc: Đông vi tả, Tây vi hữu, Nam vi tiền, Bắc vi hậu (hướng Đông bên trái, Tây bên phải, Nam phía trước, Bắc phía sau) mà định hướng tiến thủ và định vị cho ngôi nhà. Theo nguyên tắc nầy, những ngôi nhà đầu tiên cất trên vùng đất mới (kể cả những ngôi đình đầu tiên) luôn quay mặt về phương Nam là hướng tiến thủ (Nam vi tiền), đối khán là hướng Bắc (Bắc vi hậu), để mỗi khi bái tế, người ta phải quay mặt vô bàn thờ, tức hướng về phương Bắc mà hoài niệm, tri ân tổ tiên, thể hiện rõ nét đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Bởi thế mà vị trí đặt BÀN THIÊN cũng tuân thủ theo nguyên tắc đó : từ ngạch cửa nhà trước đo ra 1 trượng (khoảng gần 4 mét) cắm cột BÀN THIÊN giữa sân, nơi trống trải để BÀN THIÊN ngó thẳng lên trời (ngưỡng diện kiến thiên), bát hương để phía trước, hướng về phương Nam. Tùy theo diện tích của sân mà cự ly thay đổi chút ít cho thích hợp.
Vật cúng cũng đạm bạc đơn sơ như cơ ngơi của nó: gạo và muối. Ông cha ta rất quí trọng gạo muối, coi nó là “hạt ngọc của trời, hạt châu của biển”, vì nó là thành quả của quá trình lao động gian khổ, Đến ngày Sóc Vọng (mùng một và rằm âm lịch), lễ phẩm có khá hơn: nhang đèn, bông trái, nước sạch và gạo muối, mà gọi theo người xưa là “hương đăng, hoa quả, bạch thủy, mễ diêm”. Đến khuya ba mươi Tết cúng Giao thừa của thời kỳ tạm cư, BÀN THIÊN cũng là nơi thiết lễ tống cựu nghinh tân các ông Hành binh Hành khiến, vật cúng có khá hơn nhưng cũng không ngoài sản phẩm nông nghiệp.
Theo các vị kỳ lão thì lời khấn trước BÀN THIÊN cũng rất giản dị, nhằm cầu nguyện gia đình bình yên khoẻ mạnh, tai qua nạn khỏi, làm ruộng trúng mùa, làm ăn phát đạt mà đối tượng cầu nguyện là Trời Đất và “ai đó” mà mắt trần không thấy được: “Vái van Hoàng thiên Hậu thổ, Đất nước Ông bà” hoặc “Khấn vái trên Trời dưới Đất, những vị khuất mặt khuất mày…”
xxx
Ngày nay, trong tiến trình đô thị hóa, cái BÀN THIÊN đã dần dần vắng mặt trên những đường phố đất hẹp người đông.Tuy nhiên, ở nông thôn, nhất là miền Tây Nam Bộ thì dấu ấn nầy còn rất đậm nét. Ngay cả những thành phố lớn là nơi đất đai được coi là “tấc đất tấc vàng” – đúng cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen- đối với những người còn mang tín ngưỡng truyền thống vẫn còn lưu giữ cái BÀN THIÊN trên bao lơn của những tầng lầu 3, lầu 4. Chứng cứ đó đã khẳng định rằng, ngoài lòng sùng kính thiêng liêng, vật thể nầy còn biểu hiện cho đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người dân Nam Bộ ngày nay.
Thiết nghĩ, chùa Một cột ở miền Bắc, gần cả ngàn năm nay, chúng ta luôn hảnh diện là một quốc bảo của cả nước, thì ở phương Nam mỗi nhà bảo lưu được cái BÀN THIÊN coi đó là một gia bảo cũng nên,/-
Đỗ Văn Đồng